Sao Thái Tuế

Sao Thái Tuế trong lá số Tử Vi

Thuộc Hỏa, Hung tinh.
Hãm Thân, Dậu.
T.c. ưa tĩnh, hay biện thuyết nham hiểm. Chủ sự đa đoan, khẩu thiệt. 

Sao Thái Tuế trong Thân mệnh cung

Cung Mệnh có Thái, Tuế ngộ Cơ, Cự: hay nói ngọt, ngộ Kỵ: đa ngôn, Tuế, Nhật: đàn bà hay bị vạ miệng. Tuế ngộ Đà, Diêu, Trì: miệng rộng, nói lắp, nói hấp tấp, Tuế, Đào tại Mệnh, Loan tại Thân: hưởng phúc gia đình.
Tuế ngộ Đà, kỵ: xấu, khó mong gặp sự lành, Tuế cư Thân có Kình, Quả hợp về : tốt, Thái, Tuế ngộ Cát tinh: thịnh vượng. Ngộ hung tinh: chuân chuyên. Tuế, Phù: đại sự, đấu tranh, kiện tụng, ở vượng cung thì thắng, ở tuyệt cung thì bại.
Thái-tuế là một hành tinh cư đông vị địa cầu, các thuật số gia đã nhận biết từ sơ hán, đi theo quỹ đạo Dần Thân, mà mộc ảnh của nó trực xạ vào Dần Thân, nên có tục lệ kiêng cử quật thổ, kiến tạo gia ốc vào năm Dần, và một vòng chung quanh mặt trời là 12 năm so với quả đất 1 năm.
Sở dĩ kiêng cữ vào năm Dần, vì hình ảnh quá lớn của Tuế xạ và cung Dần, ví như ta đi dưới ánh nắng mặt trời, hình bóng của ta in trên mặt đất, nên mới đặt là nhiếp đề cách, đối với sao Thái-Tuế.
Thái-tuế tượng trưng các hành động, cử chỉ, và vẻ mặt của con người, về cách giao tiếp với xã hội, tức là công ăn việc làm của mình.
Thái-tuế là đức nhân của ngũ đức.
Thái-tuế chỉ phước may mắn của con người .
Ở khoa Thiên-văn tượng Thái-tuế Mùa xuân là nhiếp-đề.
Mùa hạ là trùng hoa.
Mùa thu là ứng tinh.
Và mùa Đông là kỳ tinh.
Cũng như Tràng-sinh, chỉ các ngành thứ bậc trong gia đình, chịu lấy may mắn của vòng Thái-tuế là 12 sao mà tiêu trưởng, Nên Thái-tuế kèm thêm Thiên-không, Quán-sách thuộc Hỏa, rĩ hỏa đức vượng, để Tuế Mộc chịu lấy mà năng sinh Phú, sinh qúy, và sinh đủ mọi thứ, có thể cả bấn hàn nữa, là do Lộc-tồn Thổ, kèm hai bên là chất Kim của Dương Đà hộ vệ để khỏi khuyết tuyệt đi.

Nên ba vòng Tràng-sinh, Thái-tuế, Lộc-tồn, Kinh-đà, Thiên-không, kết hợp lại cho đủ ngũ hành, để lưu niên vận hạn, mà biết được vận hành hoạ phúc của gia dinh, chức phận tài lộc có bị chuyển hoán là do dịch mã, và phương hướng có thể được Khôi-Việt.

Như vậy nếu Thái-tuế thuộc Hỏa, thì lưu hạn thiếu đi một hành Mộc trong ngũ hành, mà hành Mộc là cử chỉ, là việc làm ăn, là phước may mắn không có.

Lưu hạn phải chăng là muốn biết công việc,nghề nghiệp có được phát đạt thịnh vượng không .

Cũng như thiếu Tràng-sinh, thời không thể hiểu biết được các thứ bậc trong gia đình, cha con chồng vợ, nam nữ, thứ trưởng, thê thiếp ra sao.
Và không có Lộc-tồn, sẽ không biết kết quả của công ăn việc làm, phú qúy bần tiện thế nào vậy.
Cung Bào có Tuế, Tang, Trực: anh chị em khiếm hoà. Tuế, Xương, Khúc: có người khôn ngoan làm nên.
Cung Thê có Tuế, Không, Kiếp: cưới hỏi có lắm sự lôi thôi, vợ chồng bất hòa. Tuế, Đà: vợ ăn nói sai ngoa.
Cung Tử có Tuế, Am: sinh con phật thần. Tuế, Xương, Khúc: con thành đạt. Cung Tài có Tuế, Đà, Kình, Phù: có kiện tụng mới có của.
Cung Giải có Tuế ngộ Không, Kiếp hoặc Kiếp chiếu: chết đâm chết chém. Tuế, Đà, Sát, Kỵ: chết trôi. Thiên Tuế, Thiên Mã có Địa chiếu: chết đâm chết chém.
Cung Thiên Di có Tuế, Hình, Phục: đi ra ngoài bị tranh đấu nguy hiểm hoặc bị kiện tụng.
Bạn đọc :

Sao Thiên La và Sao Địa Võng

Previous
Next Post »