Luận giải lá số tử vi ở cung Mệnh và Thân

1. Mệnh, Thân đồng cung Tỵ, Ngọ hoặc cư Tuyệt xứ, vô chính tinh khủng kiến Mã, Linh, Hình, Kiếp chung thân như hoa khai ngộ vũ, mãn thế phi yếu triết nhi hình thương.

Nếu cung Mệnh hay cung Thân đồng cung đóng ở Tỵ và Ngọ ( Hỏa, địa), hoặc ở Hợi mà không có chính tinh, hoặc ở các cung tuyệt địa ( Dần, Thân, Tỵ, Hợi) so với hành của Mệnh mà là gặp các sao Thiên Mã, Hỏa Tinh, Linh Tinh, Thiên Hình, Địa Kiếp, hoặc phối hợp, hoặc cùng chiếu, thì y như hoa nở gặp mưa bão, tất sẽ bị chung thân tân khổ suốt đời bất mãn, nếu không thì phải yếu vong hoặc mang hình thương, tai nạn.

2. Thân, Mệnh đồng cung, tối hiềm nhập Mộ, hoặc cư tuyệt xứ, vô chính hiệu, hoan phùng Tả, Hữu, Sinh Vượng, hỏa hung vi cát, chung thân vượng hưởng phúc tài.

Thân, Mệnh đồng cung rất kỵ đóng ở tứ Mộ (Thìn, Tuất, Sửu, Mùi) hoặc cung Hợi (tuyệt xứ), nên rất cần gặp Tràng Sinh, Đế Vượng, Tả Phù, Hữu Bật là cách phản hung vi cát. Người mang Thổ là hợp, được phú quí song toàn. (Vì cung Mộ là bị sa lầy cũng như cung Hợi là tuyệt cung tức cái đáy).

3. Mệnh, Triệt, Thân, Tuần, tu cần vô hữu chính tinh vẫn niên vạn sự hoàn thành khả dả.

Cung Mệnh gặp Triệt án ngữ, cung Thân (hậu vận ) bị Tuần chận mặt, thì không nên có chính tinh, như vậy về già sẽ được tốt đẹp và lập nên cơ nghiệp.

4. Sinh phùng bại địa phát dã như hoa. Tuyệt xứ phùng sinh, hoa như bất bại.

Mệnh đóng vào nơi hãm địa, bại địa, dù có gặp được cơ hội may mắn làm giàu, thì cũng chỉ được một thời gian ngắn rồi chóng tàn. Như người tuổi Kim, Mệnh đóng ở cung Ngọ ( bại địa) gặp Thái Dương (đắc địa) và là sao chủ về công danh thì đến hạn gặp Tử Vi , Tham Lang ở cung Dậu là thành công, nhưng chỉ khỏang 5 năm đầu (từ 37 đến 42 tuổi) thành công, sau sẽ tàn, do Tham Lang lấn át Tử Vi . Sau đó đến đại hạn gặp Cự Môn ở cung Tuất là thất bại nặng nề.

Còn người đóng ở cung Tuyệt ( Tý hay Hợi) Mệnh ở đây gặp Thái Am đắc địa, nếu tuổi Mộc làgặp cách Tuyệt Xứ Phùng Sinh ( vì cung Tý là bại địa đối với tuổi Mộc) nhưng Thái Am hợp Mệnh, miếu địa là tốt. Đó là phản vi kỳ cách. Nếu gặp thêm tam Hóa hay cát tinh phù trợ thì giàu sang suốt đời.

5. Mệnh Vô Chính Diệu, nhị tinh diên sinh Mệnh không có sao chính tinh, nên làm con nuôi nhà khác, đổi họ đi, thì mới thoát được yểu vong.

6. Thân cát Mệnh hung, diệc vi mỹ luân. Mệnh nhược thân cường, tài nguyên bất tu. Thân có cát tinh sáng sủa, mà Mệnh có hung tinh ( hay Mệnh xấu ) thì có thể khá được.

Chứ nếu Mệnh quá yếu dù cung Thân có mạnh hơn thì của cải không tụ. Tức là Mệnh là căn bản, phải vững, thì mới hưởng được cái lộc của Thân, nếu không vững thì dễ bị yểu vong, và giàu sang không đủ sức đỡ, nên phải tán của đổi lấy người.

7. Mệnh thực vận sinh nhi hạn miêu nhi đắc vũ. Mệnh suy nhược như non thảo nhi tảo sương.

Cung Mệnh gặp vận tốt cũng ví như cây lúa đang đòi nước gặp được mưa rào. Mệnh mà xấu lại gặp hạn xấu thì chẳng khác gì cỏ non gặp sương sa (tức nguy hiểm)

8. Mệnh phùng cát diêu, tùng bá thanh tú di nan diêu.

Cung Mệnh có nhứng sao tốt hợp thành bộ phò tá thì không khác gì cây tùng cây bách xanh tốt, mạnh mẽ, khó có sự tàn úa đáng lo.

9. Mệnh nãi Dương, Đà ,Kiếp hội ví thành thọ giảm. Mệnh có Kình Dương hay Đà la tụ hội với Địa Kiếp đến La Võng gặp hung tinh là dễ bị nguy hiểm đến tính mạng. Có thể chết được.

10. Tam giáp Mệnh hung, lục giáp cát. Giáp Mệnh mà có ba bộ hung tinh Địa Không, Địa Kiếp, Hỏa Linh, Kình Đà thì rất xấu (vì gặp tai hoạ liên miên). Còn lục giáp là giáp được sáu bộ sao tốt là Tử Phù, Nhật Nguyệt, Tả Hữu, Xương Khúc, Khôi Việt và tam Hóa thì rất tốt vì cuộc đời dễ gặp may mắn tốt đẹp.

11. Thân cư Quan Lộc, hội sát dieu Triệt Tuần. Nữ Mệnh nan bảo thân danh. Gia kiến Hổ Tang, cô thân chính ảnh, nghi gia vân tuế tất thành.

Đàn bà, Thân đóng ở Quan Lộc, gặp sao Tuần hay Triệt thì khó bảo toàn danh tiết (tức là có nhân tình), nếu gặp Bạch Hổ, Tang Môn thì bị lẻ loi, phải đợi lúc xế chiều mới lập gia thất được. Người có cách này, chớ nên làm giá thú trước khi qua mặt Tuần Triệt, hay chưa gặp Tử Vi hay chầu Tử Vi . Sau khi đó (qua rồi) hãy lập giá thú thì bền.

12. Thân hội Di cung. Triệt Tuần hãm nhập, vãn tuế hồi hương phương túc cát. Nhược hữu kiến sát tinh, sự nghiệp viên thành ư ngoại xứ.

Thân đóng ở cung Thiên Di gặp Tuần Triệt hãm địa thì phải lưu lạc tha phương, đến khi về già, mới trở về nguyên quán , được hưởng phúc lộc dồi dào. Nhưng nếu cung Thiên Di lại gặp sát tinh cùng chiếu, thì chỉ có thể thành cơ nghiệp ở nơi đất khách mà thôi (tức trở về thì hết của).

13. Thân cư Thê, Tuần Triết lai xâm, thiếu niên ai lê nải u tinh. Nhược gia cát tú, lương duyên mãn kiếp dữ phu nhân.

Thân mà đóng ở cung Thê, nếu có Triệt hay Tuần án ngữ, thì lúc thiếu niên bị người yêu phụ tình, nước mắt rầm rề, thương nhớ không nguôi. Nhưng nếu có nhiều cát tinh cũng chiếu, thì lấy được bà góa phụ, nhưng có hạnh phúc đến mãn đời.

14. Thân cư Quan, kiến Triệt, Tuần, Kiếp, Kỵ, nam nhân phong vân vi tế, hữu phùng cát diêu vũ lộ thừa án, khả dãi vãn niên dĩ hậu.

Đàn ông, Thân đóng ở cung Quan mà gặp Triệt, Tuần án ngữ, có thêm Địa Kiếp, Hóa Kỵ thì tuổi trẻ công danh lật đật, do không gặp hạn phong vận, nhưng nếu được cát tinh củng chiếu thì đến lúc vãn nien (40 tuổi trở ra ) mới được Trời ban ơn mưa móc mà cho hưởng phúc lộc về sau.

Thất Sát thủ Thân chung thi yếu bần. Sao Thất Sát mà đóng vao cung Thân (hậu vận) nếu là hãm địa thì cả đời nghèo khổ và yểu. (Do Thất Sát là sao tích cực hoạt động mà hậu vận cứ phải đi long đong đi vồ mà vẫn sôi nổi không đâu vào đâu.) 
Một số các luận hạn trng Tử Vi

-Hạn chí Thiên La, Địa Võng, Khuất Nguyên ních thủy chi vong . Vận ngộ Địa Kiếp, thiên Không, Nguyên Tịch hưu bần cùng chi khổ.

Hạn đến hai cung Thìn và Tuất, gặp các hung tinh Tang Môn, Điếu Khách, Sát, phá ,Tham hãm địa, không hợp Mệnh thì nguy hiểm y như Khuất Nguyên bị chết đuối.

Cũng như hạn Địa Kiếp, Thiên Không, mà tính lưu niên ,cũng có hung tinh, sát tinh thì lao đao, y như ông Nguyễn Tịch bần hàn.

2.Đế tinh tại Tý, nan giải hung nguy, lưu hạn sát tinh La Võng, lao hình khôn vi thoái.

Mệnh có Tử Vi ở cung Tý là Tử Vi hiền hòa, do không có quyền hành. (Vua bù nhìn) đến hạn gặp sát tinh ở hai cung La Võng thì sẽ bị tù tội khó tránh, vì Tử Vi không cứu nổi.

3.Cự Môn, Hóa Kỵ giai bất cát vận Thân Mệnh hạn kỵ tương phùng. Canh hiềm Thái Tuế, Quan Phù, quan phi khẩu thiệt quyết bất không.

Hai sao Cự Môn và Hóa Kỵ đóng chung với nhau là xấu. Mệnh, Thân và Hạn gặp phải chúng là tối kỵ.

Cũng như Thái Tuế, Quan Phù đóng ở Mệnh, Thân hay Hạn gặp phải là bị kiện tụng khó tránh được. Vì Thái Tuế là sao chỉ về kiện cáo, công môn, cũng y như Cư môn là sao thị phi khẩu thiệt. Cự môn mà gặp Hóa Kỵ thì phải có đôi có ngay. Còn Thái Tuế gặp Quan Phù là ra toà, mà nhẹ nhất là nói chuyện với Ông Cò Công Lộ nhất định .( Mệnh có Thái Tuế gặp nhiều cát tinh, Tam Hóa là người làm về nghành tư pháp, có tài biện thuyết đanh (thép).

4.Điếu khách , Tang Môn, Lộc Châu hữu truy lâu chi ách, Quan Phù, Thái Tuế, Công Dã hữu tiết lụy chi ưu.

Hạn gặp Điếu Khách, Tang Môn, người Lộc Châu bị rớt từ lầu xuống chết . Người Công Dã bị trăn quấn. Vì Cung Mệnh và thân gặp Thái Tuế, chiếu có Quan Phù, mà nhị nạn gặp Quan Phù hội với sát tinh.

5. Hạn phùng hung diêu, liễu lục đào hồng nhi di tạ. Hạn gặp các hung , sát tinh hãm địa, dù có xanh tươi như hồng, như liễu cũng phải tàn tạ.

6. Kiếp, Kình, Đế Cự , Suy, Triệt lâm Mệnh, Tý hướng, ác nhân đãng từ mãn kiếp an toàn.

Cung Mệnh đóng ở Tý gặp sao Tử Vi hay sao Cự Môn nếu hội với ác sát tinh Kình,

Kiếp, Suy, Triệt thì phải chết bởi tai nạn, và khi chết rồi vẫn còn bì dày xéo, mổ xẻ hay làm đồ thí nghiệm.

7. Thiên thương gia ác diêu, Trong Ni tuyệt lương Đặng Thông vong.

Hạn Thiên Thương (cung Nô) gặp Địa Không, Địa Kiếp, Đức Khổng Tử (Trọng Ni) bị tuyệt lương (đói) ở nước Trần cũng như người Đặng Thông gặp nạn ấy , phải táng mạng, do Thiên thương rất ác.

8. Đặng Thông ngộ tử, vận phùng Đại Hao chi hương Phu Tử tuyệt lương, hạn đáo yểu thương chi nội.

Người Đặng Thông nhị hạn gặp Đại Hao hội cùng các sát tinh nên bị chết. (như cách  trên).

9. Hạng Vũ anh hùng, hạn ngộ Thiên Không phi táng quốc. Thạch Sùng hào phú, hạn hành Đà, Kiếp di vong gia.

Hạng Vũ (Sở Bá Vương) là người anh hùng, mà đến hạn gặp Thiên Không cũng phải chết ở sông Ô Giang và mất nước. Người Thạch Sùng giàu phú gia địch quốc, mà hạn Địa Kiếp cũng bị tan nát cơ nghiệp mà chết.
Bạn đọc bài khác : 

Sao Thái Tuế

Previous
Next Post »